Sinh con là mục đích cuối cùng của hôn nhân?

Picture of Nhà Nhiều Cột

Nhà Nhiều Cột

Chiến dịch #NhàNhiềuCột nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của người trẻ đối với các định kiến giới và thay đổi các sản phẩm quảng cáo nhằm hướng tới mục tiêu bình đẳng giới.

“Nghĩ ngắn, ham chơi ích kỷ. Có đứa con kết nối tình cảm sẽ càng hạnh phúc hơn.”

“Bây giờ còn trẻ thì nói vậy chứ đến già không có ai chăm mới sáng mắt ra.”

“Những ai cổ xúy cho những tư tưởng đó thật là bất hiếu. Con vật còn biết duy trì nòi giống nòi chi con người. Nếu cha mẹ hai đứa này khi đó cũng nghĩ như bọn nó thì giờ này làm gì có chuyện ngồi đó gáy. Xã hội ngày càng phát triển con người cũng ích kỷ theo, đi làm kiếm tiền sợ sinh con phải lo tiền bạc vào con, không tận hưởng được cuộc sống đầy đủ, đúng là ích kỷ.”

Đó là một số bình luận trái chiều về quyết định không sinh con của vợ chồng chị Phạm Bích Ngọc (31 tuổi) và anh Trịnh Nam Thái (31 tuổi) đang gây chú ý thời gian gần đây. Theo cặp đôi này, sinh con là quyết định của gia đình nhỏ, không ai có thể quyết định thay, kể cả bố mẹ. Tuy nhiên, theo chia sẻ của anh Thái, quyết định của hai vợ chồng đã khiến họ phải chịu nhiều áp lực từ xã hội và nhất là từ phía bố mẹ hai bên. 

Sự việc trên một lần nữa buộc chúng ta phải đặt câu hỏi: Liệu sinh con có phải mục đích cuối cùng của hôn nhân? Tại sao quyết định không sinh con lại bị gán nhãn là “ích kỷ”, “nhìn ngắn”, “bất hiếu”, “trái tự nhiên”…? Hãy cùng Nhà Nhiều Cột thảo luận về vấn đề này nhé! 

MỤC ĐÍCH CỦA HÔN NHÂN TRONG QUÁ KHỨ

May be an image of text that says '#nhà nhiều cột 6 初ፅ 0 MỤC ĐÍCH CỦA HÔN NHÂN TRONG QUÁ KHỨ'

Trong lịch sử, mục đích phổ biến nhất của hôn nhân là tạo mối liên kết giữa những người xa lạ. Từ thuở sơ khai, con người đã biết dựa vào cộng đồng để sinh tồn, và hôn nhân trở thành công cụ củng cố mối liên kết giữa con người. Theo đó, người làm chủ gia đình, bộ tộc sẽ quyết định hôn nhân của con cái. Nơi nào môi trường tự nhiên càng khắc nghiệt thì hôn nhân càng được gia đình kiểm soát chặt chẽ. Ở những nơi điều kiện sống tốt hơn, hôn nhân cũng ít bị kiểm soát hơn.

Trong thời kỳ phong kiến, hôn nhân được coi như hình thức liên minh kinh tế và chính trị. Ý tưởng tôn vinh tình yêu như mục đích quan trọng nhất của hôn nhân mới chỉ ra đời vào thế kỷ 18 ở châu Âu đã tạo ra một cuộc cách mạng. Tại thời điểm đó, con người bắt đầu có sự độc lập với gia đình, cũng như nhận thức về quyền cá nhân và sự bình đẳng [1].

Tại Việt Nam, các bộ luật hôn nhân cũ góp phần duy trì chế độ phụ hệ và đảm bảo chức năng sinh sản của gia đình. Bộ luật Hồng Đức thế kỷ 18 buộc chồng phải bỏ vợ nếu người vợ không có con [2]. Năm 1815, bộ Luật Gia Long cho phép chồng bỏ vợ nếu không sinh con trai, việc hiếm muộn được coi là “ác tật” [3]. Năm 1959, luật hôn nhân cấm người bất lực hoàn toàn về sinh lý kết hôn [4]. Năm 2000, luật cấm đối tượng kết hôn là người đồng giới [5]. Ngoài ra, chỉ sau năm 1959, luật Việt Nam mới thay thế chế độ đa thê sang một vợ – một chồng.

KHÔNG SINH CON LÀ BẤT HIẾU?

May be a cartoon of one or more people and text that says '#nhà nhiều cột KHÔNG SINH CON LÀ BẤT HIẾU?'

Theo Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới (2021), ở các gia đình nông thôn, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long và Tây Nguyên, việc hướng đến các giá trị con cái truyền thống, ví dụ, dùng con cái để duy trì bền vững hôn nhân, coi trọng việc có con để làm hài lòng cha mẹ và giá trị an sinh của việc có con (có con để có người chăm sóc khi về già)… phổ biến hơn. Đây cũng là những nơi có quan điểm giữ gìn nền nếp gia phong cho con cháu và sự gắn kết cộng đồng cao hơn.

Ở thành thị, nhất là TP.HCM, tỷ lệ chấp nhận các giá trị mới (như không sinh con khi kết hôn, sống độc thân, hôn nhân đồng giới, làm mẹ đơn thân, chung sống không kết hôn, quan điểm bình đẳng nam-nữ) cao hơn. Các gia đình ở đô thị đề cao giá trị tình cảm của con cái, đánh giá giá trị an sinh thấp hơn. Họ ưa thích các giá trị của cuộc sống vợ chồng riêng tư trong đảm bảo sự bền vững gia đình và mong muốn sống riêng khi về già cao hơn nhiều so với các gia đình nông thôn [6].

Như vậy, quan niệm chủ đạo về con cái của người Việt hiện nay có sự khác nhau ở mỗi khu vực: nơi quan trọng giá trị tinh thần và sự độc lập, nơi hướng đến bảo lưu gia phong truyền thống và kết nối cộng đồng. Đó là chưa bàn tới, mỗi cá nhân sinh trưởng trong môi trường hoàn toàn dị biệt, do đó luôn tồn tại sự đa tạp về hệ giá trị. Quy kết một người lựa chọn không sinh con là “bất hiếu” có thể nói là một ngộ nhận: cho rằng mong mỏi của bản thân cũng là mong mỏi của tất cả mọi người.

KHÔNG SINH CON LÀ ÍCH KỶ?

May be an image of one or more people and text that says '#nhà nhiều cột KHÔNG SINH CON LÀ ÍCH KỲ?'

Từ năm 1945 đến 2019, tỷ lệ sinh con có xu hướng giảm dần tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở châu Á, tỷ lệ con trung bình của mỗi phụ nữ giảm từ 4,99 còn 1,95 tại Việt Nam; 3,1 còn 1,47 tại Nhật Bản; 6.08 còn 1,25 tại Singapore. Ở Châu Âu, tỷ lệ giảm từ 2,05 xuống 1,87 tại Anh, từ 2,31 còn 1,98 ở Pháp, từ 3,07 còn 1,29 ở Phần Lan [7].

Theo Forbes, tình trạng không sinh con đã gia tăng ở Mỹ qua ba thế hệ. Làn sóng này bùng lên vào cuối những năm 60, sau khi sáng kiến bình đẳng cho phụ nữ ra đời. Phụ nữ được tham gia vào những lĩnh vực trước đây chỉ dành cho nam giới và nắm quyền kiểm soát sinh nở bằng thuốc. Hiện nay, gần 20% người trong độ tuổi 55-64 không sinh con. Con số này là gần 16% với người từ 65-74 tuổi và gần 11% với người trên 75 tuổi [8].

Những lý do tỷ lệ sinh giảm có thể kể đến như: sự cạnh tranh của môi trường lao động, sự bất an về kinh tế, tiền và chi phí cơ hội khi nuôi dạy trẻ, sự bất đồng về thể chế (gây ra bởi thái độ về gia đình, giới tính, việc nuôi con). Ví dụ về chi phí cơ hội, theo Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, mức thu nhập tiềm năng của phụ nữ có con giảm 20% so với chồng; khả năng kiếm thu nhập của họ giảm 4% sau mỗi đứa con. Việc không có con phần nào giúp cá nhân tiếp cận nhiều hơn tới giáo dục, chủ động hơn trong sự nghiệp và tự do hơn trong tài chính. Nghiên cứu cho thấy số người này có trình độ giáo dục cao hơn số người sinh con [9]. Tuy nhiên, lựa chọn này khiến họ, đặc biệt là phụ nữ, bị dán nhãn là “ích kỷ”, “kén chọn”, “ham công việc”. Tại Trung Quốc, phụ nữ độc thân trong độ tuổi cuối 20 bị gọi là “sheng nu” (người bị bỏ lại). Họ bị áp lực chứng tỏ bản thân bằng chủ nghĩa tiêu dùng: tiêu tiền cho bản thân và tặng quà cho cha mẹ.

Có thể nói, không sinh con không còn là lựa chọn của một vài cá nhân “cá biệt” trong xã hội mà nó đang trở thành một “tâm thức” của thời đại. Ý thức được sự hỗn mang của bối cảnh chính trị-xã hội, con người càng có thêm cơ sở để cân nhắc đối với từng lựa chọn của mình. Phát ngôn quy kết một người lựa chọn không sinh con là “ích kỷ” dường như chỉ đến từ những người có đặc quyền, hoặc không hề biết bản thân có quyền.

KHÔNG SINH CON LÀ TRÁI TỰ NHIÊN?

May be a cartoon of ‎tree and ‎text that says '‎#nhà nhiều cột KHÔNG SINH CON LÀ TRÁI TỰ NHIÊN? اری‎'‎‎

Một quan điểm phổ biến cho rằng quyết định không sinh con là “trái tự nhiên”, chưa làm cha mẹ là chưa hạnh phúc.

Trong khi việc sinh con ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể người phụ nữ, thì “làm mẹ” được lãng mạn hóa và coi như lẽ tự nhiên bằng cái nhãn “thiên chức”, công việc mang tính tự nhiên và thiêng liêng.

Theo nhà phê bình văn hóa Laura Kipnis, quan điểm coi “tình mẫu tử” và “bản năng làm mẹ” là tự nhiên nằm trong quy ước xã hội về phụ nữ vào một thời điểm lịch sử, không phải điều kiện bất biến. “Tình mẫu tử” là khái niệm được phát minh vào thế kỷ 19. Trước đó, phụ nữ không đủ khả năng gắn bó với những đứa trẻ, vì 15-30% trẻ sơ sinh không sống quá 1 tuổi. Khái niệm gắn bó giữa mẹ và con cũng ra đời cùng lúc với sự phát triển công nghiệp hóa khi lao động trả lương trở thành lựa chọn của phụ nữ, nhằm thôi thúc (thậm chí đe dọa) phụ nữ nên ở nhà [10]. Vào những năm 60, truyền thông Mỹ từng phát tán những câu chuyện giả tưởng chống lại mong muốn trì hoãn hoặc không lập gia đình (bao gồm việc có con) của phụ nữ [11]. Điều tương tự cũng đang xảy ra với các “sheng nu” tại Trung Quốc, với thông điệp nếu phụ nữ không kết hôn từ khi còn trẻ, sẽ không ai muốn cưới họ nữa.

Tự nhiên cho con người cơ hội tạo ra con cái. Tuy nhiên, cơ hội ấy không biến việc sinh nở và nuôi con trở thành nghĩa vụ của chúng ta. Bởi theo nguyên tắc bình đẳng giới, mỗi cá nhân đều có quyền lựa chọn hoặc không sử dụng cơ hội của mình.

GÓC KHUẤT CỦA MÔ HÌNH GIA ĐÌNH HẠT NHÂN

May be an image of one or more people and text that says '#nhà nhiều cột GÓC KHUẤT CỦA MÃ HINH GIA ĐÌNH HẠT NHÂN'

Kỳ vọng các cặp vợ chồng phải có con phần nào cho thấy mong muốn duy trì mô hình gia đình hạt nhân. Hiện nay, trong hầu hết các nền văn hóa, gia đình hạt nhân (với một người vợ, một người chồng và chính xác hai đứa con) là kiểu gia đình phổ biến nhất. Đây là một khái niệm được xây dựng xung quanh quan điểm cho rằng đàn ông chu cấp còn phụ nữ thì nuôi dưỡng. Nó được xếp vào loại môi trường lý tưởng để nuôi dạy trẻ trong thế kỷ 20.

Tuy nhiên, về mặt cấu trúc, gia đình hạt nhân củng cố giả định gia đình chỉ nên là dị tính. Trong đó, đàn ông luôn được coi là người duy trì dòng giống và người phụ nữ đứng đầu một gia đình nhận trách nhiệm sinh sản. Một người đàn ông sinh ra trong những năm đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật siêu hình (chủ nghĩa coi thế giới là một cỗ máy) vào thế kỷ 19 – Hoàng đế Napoleon, đã cho rằng phụ nữ chỉ là “những cái máy sản xuất con cái”.

Về mặt kinh tế và xã hội, người đàn ông trưởng thành (người cha) được ban quyền sở hữu vợ và con cái, kể cả – như nhiều bằng chứng trong quá khứ – quyền bạo hành thân thể họ. Chẳng hạn, ở Mỹ, “đánh vợ” chỉ bị coi là phạm pháp từ năm 1920 và mãi tới những năm 1970 thì bạo hành gia đình mới được công nhận là một tội nghiêm trọng, chứ không chỉ là một vấn đề riêng tư trong gia đình. Tương tự, trong các nền văn hóa Á Đông truyền thống, quan điểm “con trai nối dõi tông đường” khiến khả năng nắm giữ tài sản và quyền lực của phụ nữ bị giới hạn, thậm chí bất khả thi.

XOAY QUANH TÌNH YÊU

May be an image of text that says '#nhà nhiều cột ΧΟΑΥ QUANH TÌNH YÊU'

Trong “Xoay quanh tình yêu”, bell hooks lập luận, gia đình không phải là cái khung tốt nhất cho con người. Đúng hơn, chúng ta nên xây đắp đời sống của chúng ta xoay quanh tình yêu. Bà tin rằng chính cộng đồng, chứ không phải gia đình hạt nhân, mới mang lại tình yêu và an toàn cho nhân loại. “Phần lớn các cuộc đối thoại về ‘giá trị gia đình’ trong xã hội đều nhấn mạnh về gia đình hạt nhân, tức là một gia đình gồm cha, mẹ và tốt hơn hết là chỉ có một hoặc hai đứa trẻ,” hooks chỉ ra. “Ở Mỹ, đơn vị này được trưng ra như một tổ chức chính yếu và được ưa chuộng cho việc nuôi dạy trẻ em, một đơn vị sẽ đảm bảo cho mọi người đạt được hạnh phúc tối ưu. Tất nhiên, đây là một hình ảnh ảo tưởng về gia đình. Hầu như chưa có ai trong xã hội chúng ta được sống trong một môi trường như thế này.”

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Oldest
Newest Most Voted
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả các bình luận

Các bài khác cùng chủ đề